Yêu cầu mở thủ tục phá sản sao cho đúng?
Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bị Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản. Bên yêu cầu mở thủ tục phá sản phải là chủ thể có quyền nộp đơn và đáp ứng điều kiện về “khoản nợ”, “đến hạn” theo quy định pháp luật.
LS. Phạm Xuân Sang & Nancy Pham
Doanh nghiệp phản đối quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án
Đầu năm 2018, Công ty TNHH XD DV Quốc Linh yêu cầu và được Tòa án nhân dân TP.HCM quyết định mở thủ tục phá sản đối với Công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo. Vào tháng 3 năm 2013, Công ty Tân Tạo phản đối quyết định mở thủ tục phá sản này, vì cho rằng chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của Công ty Quốc Linh là bất hợp lý; Công ty Tân Tạo cho rằng yêu cầu mở thủ tục phá sản này dựa trên các bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa (Long An) và bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, nhưng lại có nhiều sai phạm, hồ sơ vụ án có nhiều tài liệu giả mạo, đồng thời Công ty Tân Tạo “khẳng định hoàn toàn không có quan hệ kinh tế, không tranh chấp với Công ty Quốc Linh".
Ngày 09/10/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai mở thủ tục phá sản đối với Công ty Cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai theo yêu cầu của Công ty Cổ phần Lilama 45.3. Phản đối quyết định mở thủ tục phá sản này, Công ty Đức Long Gia Lai cho rằng việc gửi đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhằm mục đích tạo áp lực, gây mất uy tín, làm ảnh hưởng đến công ăn việc làm, đời sống người lao động... đồng thời công ty này đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu để chứng minh đủ khả năng trả nợ cho Công ty Lilama 45.3...
Vậy Phá sản là gì?
Theo Luật Phá sản 2014, Phá sản được hiểu là tình trạng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Khi bị Tòa án ban hành quyết định tuyên bố phá sản, tư cách pháp lý và hoạt động của doanh nghiệp bị chấm dứt vĩnh viễn; các giao dịch của doanh nghiệp bị đình chỉ; các khoản nợ được xử lý theo quy định; con dấu, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bị thu hồi….
Do đó, để được công nhận là phá sản, doanh nghiệp phải đáp ứng đồng thời cả 02 điều kiện sau: (i) Mất khả năng thanh toán; và (ii) Bị Tòa án nhân dân tuyên bố phá sản.
Để Tòa án ban hành quyết định tuyên bố phá sản một doanh nghiệp khác, cá nhân hoặc tổ chức cần thực hiện theo trình tự: (1) Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại Tòa án có thẩm quyền; (2) Tòa án nhận đơn và nộp tạm ứng phí phá sản nếu đơn hợp lệ; (3) Tòa án thụ lý; (4) Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản; (5) Triệu tập Hội nghị chủ nợ; (6) Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản nếu doanh nghiệp vẫn không phục hồi được và vẫn mất khả năng thanh toán.
Ai có quyền nộp đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp?
Theo Điều 5 Luật Phá sản 2014, những người có quyền nộp đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp gồm:
- Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán;
- Người lao động, công đoàn;
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
- Chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên…;
- Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán…
Và theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Luật Phá sản 2014, Tòa án sẽ trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu bên yêu cầu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 5 trên đây.
Thế nào là “tình trạng doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán”?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014, Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán được hiểu là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. Tại Văn bản số 199/TANDTC- PC ngày 18/12/2020, Tòa án nhân dân tối cao giải đáp và hướng dẫn rằng, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Có khoản nợ cụ thể, rõ ràng do các bên thừa nhận, thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại, hoặc được xác định trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền và các bên không có tranh chấp về khoản nợ này.
- Khoản nợ đến hạn thanh toán. Khoản nợ đến hạn thanh toán là khoản nợ đã được xác định rõ thời hạn thanh toán, mà đến thời hạn đó doanh nghiệp, hợp tác xã phải có nghĩa vụ trả nợ. Thời hạn thanh toán này được các bên thừa nhận, thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại hoặc trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán bao gồm 02 trường hợp: (i) Doanh nghiệp, hợp tác xã không có tài sản để thanh toán các khoản nợ; (ii) Doanh nghiệp, hợp tác xã có tài sản nhưng không thanh toán các khoản nợ.
Theo đó, “mất khả năng thanh toán” không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để trả nợ; mặc dù doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản để trả nợ nhưng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn cho chủ nợ thì vẫn coi là doanh nghiệp, hợp tác xã "mất khả năng thanh toán".
Cần lưu ý: Pháp luật hiện hành không quy định một mức khoản nợ cụ thể nào để xác định là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán mà chỉ cần có đủ các điều kiện nêu trên.
Như vậy, bên yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với một doanh nghiệp, hợp tác xã phải là chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định tại Điều 5 Luật Phá sản.
Trường hợp với tư cách là “Chủ nợ” yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp khác cần xác định giữa hai bên “có khoản nợ”; khoản nợ này cần cụ thể, rõ ràng do các bên thừa nhận, thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài, hoặc được xác định trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền; và sẽ không được coi là “có khoản nợ” để yêu cầu mở thủ tục phá sản khi các bên đang có tranh chấp về khoản nợ này. Đồng thời, khoản nợ này phải thuộc trường hợp đã “đến hạn” phải thanh toán được các bên thừa nhận, thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài hoặc trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
___
SENLAW
Trong bức tranh đa dạng của tố tụng trọng tài quốc tế – nơi các tranh chấp thương mại vượt qua ranh giới quốc gia, ngôn ngữ và hệ thống pháp luật – thủ tục tố tụng không chỉ đơn thuần là một tiến trình kỹ thuật, mà còn phản ánh tư duy chiến lược và nền tảng pháp lý của các bên tranh tụng.
Mặc dù khái niệm “bồi thường thiệt hại ước định” đã được ghi nhận rộng rãi trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia và dần trở nên quen thuộc với những người trực tiếp tham gia soạn thảo và áp dụng hợp đồng trong thực tiễn tại Việt Nam, song khuôn khổ pháp lý hiện hành vẫn chưa thiết lập một cơ chế pháp lý độc lập và rõ ràng đối với loại điều khoản này.
Trong bức tranh toàn cảnh của hoạt động kinh doanh thương mại, hợp đồng không chỉ là một văn bản pháp lý, mà còn là nền tảng cốt lõi định hình mối quan hệ giữa các bên trong quá trình hợp tác. Đây là công cụ ghi nhận rõ ràng các cam kết, quyền và nghĩa vụ – từ đó tạo ra cơ chế vận hành ổn định, minh bạch và bảo đảm lợi ích giữa các bên.
Để chủ động kiểm soát rủi ro, các bên thường thỏa thuận trước cơ chế giải quyết tranh chấp trong hợp đồng. Hai cơ chế phổ biến nhất hiện nay là Tòa án (tài phán nhà nước) và Trọng tài thương mại (tài phán tư nhân). Tuy nhiên, không ít hợp đồng quy định điều khoản cho phép các bên lựa chọn cả hai cơ chế – vừa Tòa án, vừa Trọng tài. Vậy thỏa thuận này có hợp lệ và hiệu lực theo pháp luật Việt Nam không?