Trách nhiệm hình sự của doanh nghiệp: [1] Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự; và việc truy cứu trách nhiệm hình sự
Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 theo Luật số 12/2017/QH14 _ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 100/2015/QH13. Theo đó, doanh nghiệp sẽ có thể trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo quy định mới nếu doanh nghiệp đó là pháp nhân thương mại và phạm vào một trong các tội được quy định tại BLHS 2015 (“BLHS 2015”).
Trách nhiệm hình sự (“TNHS”) của pháp nhân thương mại là những quy định pháp luật hoàn toàn mới so với trước đây, Doanh nghiệp cần lưu ý để xem xét, điều chỉnh hành vi phù hợp, tránh những tổn thất về vật chất cũng như uy tín, hình ảnh, thương hiệu của Doanh nghiệp.
Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự: Pháp nhân thương mại
Theo quy định của Bộ luật dân sự, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ 04 điều kiện: (i) được thành lập hợp pháp; (ii) có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (iii) có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; Và (iv) nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. BLDS 2015 phân định pháp nhân gồm, pháp nhân thương mại (“PNTM”) và pháp nhân phi thương mại (bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác).
PNTM là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận nhận được chia cho các thành viên; PNTM bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác được thành lập, hoạt động và chấm dứt theo quy định pháp luật. Các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và là pháp nhân thương mại hiện nay là Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp doanh; trong khi đó, Doanh nghiệp tư nhân, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty không có tư cách pháp nhân, nên cũng không phải là PNTM.
BLHS 2015 hiện quy định chỉ PNTM khi phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 Bộ luật này mới phải chịu TNHS. Như vậy, không phải mọi pháp nhân đều là chủ thể của tội phạm, chỉ có PNTM mới là chủ thể tội phạm. Theo đó, PNTM khi tham gia các quan hệ pháp luật, bên cạnh việc thụ hưởng các quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự, còn phải tự chịu TNHS đối với hành vi phạm tội của chính mình. PNTM không thể ủy thác, chuyển giao cho một pháp nhân khác (bao gồm cả cơ quan quản lý cấp trên hay một pháp nhân con của mình ) gánh chịu TNHS về hành vi phạm tội do chính mình đã thực hiện.
Truy cứu TNHS đối với PNTM: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với PNTM và những vấn đề cần phải chứng minh khi truy cứu TNHS đối với PNTM
PNTM phải chịu TNHS trong 33 tội danh được liệt kê cụ thể tại Điều 76 của BLHS 2015. Theo đó, khi cơ quan có thẩm quyền xác định có dấu hiệu tội phạm do PNTM thực hiện và có đủ căn cứ xác định PNTM đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với PNTM.
Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 (“BLTTHS 2015”) quy định trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với PNTM bị buộc tội, cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh 05 vấn đề: (i) có hành vi phạm tội xảy ra hay không; thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc TNHS của PNTM theo quy định của BLHS; (ii) lỗi của PNTM và của cá nhân là thành viên của PNTM đó; (iii) tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của PNTM gây ra; (iv) những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt; (v) nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
LS. Võ Ngọc Thanh & SENLAW
MV “Chẳng Thể Nhắm Mắt” và cá nhân Hùng Huỳnh không vi phạm bất kỳ quyền tác giả và quyền liên quan nào đối với MV “Standing Next To You” như các quyền đặt tên, đứng tên, làm tác phẩm phái sinh, sao chép, công bố, hay bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm theo Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành và các quy định liên quan.
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy một số quy định về thủ tục tạm ngừng phiên tòa trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn chưa thống nhất nhận thức; một số vấn đề về tạm ngừng phiên tòa phát sinh trong thực tế nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh như: Hình thức tồn tại của quyết định tạm ngừng phiên tòa; sau khi có quyết định tạm ngừng phiên tòa, HĐXX phải thông báo cho những chủ thể nào và việc...
Áp dụng tập quán được xem là một giải pháp nhằm giải quyết kịp thời những tranh chấp mà pháp luật chưa có quy định điều chỉnh, cũng là cơ sở để hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng tập quán trong giải quyết vụ việc dân sự, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng tập quán trong công tác xét xử hiện nay.
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại theo thủ tục phúc thẩm, VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh nhận thấy việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty; yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” tại Bản án số 06/2022/KDTM-ST ngày 18/8/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm.