028 7307 3579

HotLine

Ngôn ngữ

Trách nhiệm hình sự của doanh nghiệp: [3] Các biện pháp cưỡng chế đối với Pháp nhân thương mại

Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 theo Luật số 12/2017/QH14 _ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 100/2015/QH13. Theo đó, doanh nghiệp sẽ có thể trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo quy định mới nếu doanh nghiệp đó là pháp nhân thương mại và phạm vào một trong các tội được quy định tại BLHS 2015 (“BLHS 2015”).

Trách nhiệm hình sự (“TNHS”) của pháp nhân thương mại là những quy định pháp luật hoàn toàn mới so với trước đây, Doanh nghiệp cần lưu ý để xem xét, điều chỉnh hành vi phù hợp, tránh những tổn thất về vật chất cũng như uy tín, hình ảnh, thương hiệu của Doanh nghiệp.

Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 (“BLTTHS 2015”) quy định 04 biện pháp cưỡng chế đối với PNTM với những căn cứ, điều kiện áp dụng chặt chẽ và thời hạn áp dụng không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử, cụ thể:

Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của PNTM.

Biện pháp này được áp dụng đối với PNTM bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà BLHS 2015 quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại; chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Tài sản bị kê biên được giao cho người đứng đầu PNTM có trách nhiệm bảo quản; nếu để xảy ra việc tiêu dùng, sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì người này phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật (có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 385 BLHS 2015 về tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, phong tài khoản). Việc kê biên tài sản phải có mặt người đại diện theo pháp luật của PNTM; đại diện chính quyền cơ sở nơi PNTM có tài sản bị kê biên và người chứng kiến.

Phong tỏa tài khoản liên quan đến hành vi phạm tội của PNTM.

Biện pháp này được áp dụng đối với PNTM bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà BLHS 2015 quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại và có căn cứ xác định PNTM có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc nhà nước; áp dụng không chỉ đối với PNTM phạm tội, mà còn đối với tài khoản của cá nhân, tổ chức khác nếu có căn cứ xác định số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội của PNTM; chỉ phong tỏa số tiền trong tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Cơ quan phong tỏa tài khoản phải giao quyết định phong tỏa tài khoản cho đại diện tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc nhà nước đang quản lý tài khoản của PNTM hoặc tài khoản của cá nhân, tổ chức khác liên quan đến hành vi phạm tội của PNTM;

Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của PNTM liên quan đến hành vi phạm tội của PNTM.

Biện pháp này được áp dụng khi có căn cứ xác định hành vi phạm tội của PNTM gây thiệt hại hoặc khả năng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, môi trường hoặc trật tự, an toàn xã hội. Cấp trưởng, cấp phó của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án các cấp và Hội đồng xét xử; quyết định của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng của Cơ quan điều tra phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn áp dụng không quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; thời hạn tạm đình chỉ đối với PNTM bị kết án kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm PNTM chấp hành án.

Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án.

Biện pháp này được áp dụng đối với PNTM bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại; chỉ buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án tương ứng với mức có thể bị phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại.

LS. Võ Ngọc Thanh & SENLAW

Tin tức khác

Trong bức tranh đa dạng của tố tụng trọng tài quốc tế – nơi các tranh chấp thương mại vượt qua ranh giới quốc gia, ngôn ngữ và hệ thống pháp luật – thủ tục tố tụng không chỉ đơn thuần là một tiến trình kỹ thuật, mà còn phản ánh tư duy chiến lược và nền tảng pháp lý của các bên tranh tụng.

Mặc dù khái niệm “bồi thường thiệt hại ước định” đã được ghi nhận rộng rãi trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia và dần trở nên quen thuộc với những người trực tiếp tham gia soạn thảo và áp dụng hợp đồng trong thực tiễn tại Việt Nam, song khuôn khổ pháp lý hiện hành vẫn chưa thiết lập một cơ chế pháp lý độc lập và rõ ràng đối với loại điều khoản này.

Trong bức tranh toàn cảnh của hoạt động kinh doanh thương mại, hợp đồng không chỉ là một văn bản pháp lý, mà còn là nền tảng cốt lõi định hình mối quan hệ giữa các bên trong quá trình hợp tác. Đây là công cụ ghi nhận rõ ràng các cam kết, quyền và nghĩa vụ – từ đó tạo ra cơ chế vận hành ổn định, minh bạch và bảo đảm lợi ích giữa các bên.

Để chủ động kiểm soát rủi ro, các bên thường thỏa thuận trước cơ chế giải quyết tranh chấp trong hợp đồng. Hai cơ chế phổ biến nhất hiện nay là Tòa án (tài phán nhà nước) và Trọng tài thương mại (tài phán tư nhân). Tuy nhiên, không ít hợp đồng quy định điều khoản cho phép các bên lựa chọn cả hai cơ chế – vừa Tòa án, vừa Trọng tài. Vậy thỏa thuận này có hợp lệ và hiệu lực theo pháp luật Việt Nam không?